Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

80% thông báo kỹ thuật của vn có nhân tố nước ngoài

Thích hợp tác quốc tế trong tìm hiểu kỹ thuật là quy luật bình thường và rất quan trọng cho các nước đang phát triển.

loading...

Tìm hiểu khoa học ở vietnam 20 năm qua có phổ quát chuyển biến tích cực. Số bài báo lên tiếng trên những tập san trong danh mục ISI (Institute for Scientific Information) đẩy mạnh, đạt khoảng 17% mỗi năm. Giả dụ như đầu thập niên 1990, số bài báo công nghệ của Việt Nam trên ISI chỉ khoảng 300, tới đầu thập niên 2000 khoảng 400, thì tới năm 2015 là xấp xỉ 3.000.

Theo tập san hàng đầu trong chuyên lĩnh vực trắc lượng khoa học Scientometrics, riêng công đoạn 2001-2015, các nhà kỹ thuật Việt đã công bố được hơn 18.070 bài trên các tập san thuộc ISI. So với các nước trong vùng, vietnam mới bằng 28% của Thái Lan, 25% Malaysia và 15% Singapore, nhưng cao hơn Indonesia và Philippines.

Malaysia mở màn vượt Singapore về số lượng bài báo kỹ thuật lên tiếng. Năm 2015, Malaysia công bố được 12.340 bài, thấp hơn Singapore 1.290 bài. Nhưng một năm sau, Malaysia nhích hơn 9 bài.

Indonesia lúc trước lên tiếng quốc tế thấp hơn vn, nhưng nhị năm cách đây không lâu lại có thiên hướng tăng và tài năng vượt qua Việt Nam. Trong năm 2014, số thông báo quốc tế của Indonesia là 1.795, thấp hơn vn 801 bài. Nhưng đến năm 2016 thì con số thông báo quốc tế của Indonesia xấp xỉ vn, kém 6 bài.

Những xu hướng này cho thấy nghiên cứu khoa học Đông Nam Á đang có chuyển biến hăng hái và Malaysia có thể là quốc gia nhiều lên tiếng quốc tế nhất trong vùng.

Các nước khác như Brunei, Campuchia, Lào và Myanmar cũng có công bố quốc tế song lượng còn thấp, chỉ đóng góp khoảng 2% tổng số bài báo công nghệ từ ASEAN, và đa số là do thích hợp tác quốc tế.

Phù hợp tác quốc tế - nội lực khoa học của đất nước

Để nhân thức được nội lực kỹ thuật của một đất nước, người ta hay dùng chỉ số về hợp tác quốc tế trong nghiên cứu. Ở nước mà nền công nghệ tham gia quá trình sản xuất cao như Âu, Mỹ tỷ lệ phù hợp tác quốc tế thường đạt mức 50% và phần nhiều họ vào vai trò chủ quản trong các công trình nghiên cứu.

Một nghiên cứu đăng tải trên Scientometrics cho thấy, công đoạn 1991-2010, trong gần 11.000 bài báo kỹ thuật từ vn, số bài báo có phù hợp tác quốc tế chiếm gần 80%.

Trong thời điểm 2001 đến 2015, tỷ lệ này vẫn chưa đổi mới đáng kể. Tính thông thường, trong số 18.076 bài báo khoa học trên các tập san ISI, 77% tòa tháp là có thích hợp tác quốc tế. Nói bí quyết khác, tỷ lệ nội lực chỉ 23%.

Đương nhiên, có sự đặc biệt về chừng hợp tác quốc tế giữa các ngành nghiên cứu. Y tế công cộng, y học lâm sàng, y sinh học và kỹ thuật phố hội có tỷ trọng phù hợp tác quốc tế cao nhất (trên 85%); hóa học và công nghệ cũng có tỷ lệ phù hợp tác quốc tế khá cao.

Bảng 1: Tỉ trọng (%) hợp tác quốc tế trong các bài báo khoa học của Việt Nam (2001 - 2015)

Tỷ trọng phù hợp tác quốc tế trong các bài báo khoa học của vietnam (2001-2015).

Các nhà khoa học vn còn phù hợp tác với đồng nghiệp của hơn 150 tổ quốc. Trong đó, đa dạng nhà công nghệ của 5 nước cùng thích hợp tác trong một dự án, và có một vài trường hợp phân tích vật lý có hơn 100 giang sơn nhập cuộc (kể cả Việt Nam). 10 nước nhà Việt Nam hợp tác đa dạng nhất là Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Pháp, Anh, Australia, Đức, China, Hà Lan và Thái Lan.

Đông đảo ngành nghề tìm hiểu, bài báo có "yếu tố quốc tế" đều có chỉ số trích dẫn cao hơn bài báo thuần Việt. Chẳng hạn ngành y học lâm sàng, chỉ số trích dẫn của các bài báo thuần Việt là 7,74, nhưng bài báo có hợp tác quốc tế có chỉ số trích dẫn cao hơn ba lần. Ở toán học, bài báo có hợp tác quốc tế chỉ số trích dẫn cao gấp 2,4 lần so với bài báo thuần Việt. Khác biệt trong lĩnh vực kinh tế, các bài báo có hợp tác quốc tế (chiếm hữu 68% tổng số) có chỉ số trích dẫn gấp 4,5 lần.

Hình 1: Hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học của Việt Nam trong thời gian 2001 - 2015. Đường nối càng dày thể hiện số bài báo khoa học với tác giả của hai nước càng cao. Mạng lưới phần trên của hình cho thấy Việt Nam chủ yếu hợp tác nghiên cứu khoa học với các nước phương Tây.

Phù hợp tác quốc tế trong phân tích công nghệ của vn 2001-2015. Con đường nối càng dày thể hiện số bài báo khoa học với tác giả của nhị nước càng cao. Mạng lưới phần trên của hình cho thấy Việt Nam chủ yếu phù hợp tác tìm hiểu kỹ thuật với các nước phương Tây.

Dù hợp tác quốc tế giúp tăng chất lượng phân tích, nhưng lại trả cái giá về tự chủ. Các chuyên gia quản lý kỹ thuật thường xem tỷ trọng hợp tác 80% hay cao hơn là "nương tựa". Nếu như sử dụng tiêu chuẩn này thì đa số tìm hiểu của vn đều bị xem là đang ở hiện trạng nương tựa.

Giáo sư Nguyễn Văn TuấnĐại học New South Wales, Australia

Các nhà kỹ thuật và bạn đọc có bài viết san sớt kinh nghiệm liên quan tới công bố quốc tế, mời gửi tham gia áo quan thư giaoduc@vnexpress.net.

loading...


Xem tại: Mua Hàng Nhật Xách Tay

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét